Trong tử vi, không ai có thể bỏ qua sự quan trọng của cung Phúc Đức. Đây là cung mà các nhà tử vi luôn cần xem xét kỹ lưỡng để đánh giá vận mệnh của chủ nhân lá tử vi. Không chỉ có tầm quan trọng vượt trội, cung này còn chi phối mạnh mẽ đến sự may mắn, thịnh vượng hay rủi ro và bất hạnh của các cung khác. Bạn có muốn khám phá tất cả những bí mật của cung Phúc Đức và tầm quan trọng của nó trong việc đánh giá vận mệnh? Hãy cùng tôi khám phá chi tiết trong bài viết này!
1. Cung Phúc Đức là gì?
Cung Phúc Đức là cung thứ 3 xét trong lá số tử vi, đứng sau cung Phụ Mẫu và đứng trước cung Điền Trạch, chủ về tuổi thọ, giàu sang và tương lai của đương số.
Nếu cung Phúc mà xấu thì thọ yểu, sau đến sự giàu sang cũng kém. Phúc mà tốt thì khi gặp tai nạn cũng sẽ sớm qua khỏi. Nếu gặp Lộc thì Lộc càng to lên như có một sự chiếu cố cho tất cả mọi công việc.
Do đó, xem cung Phúc, ngoài các chính tinh và các cách ra cần phải xem vòng Trường Sinh có hợp cung Mệnh không, hợp với sao chính tinh không. Nếu thấy yếu kém thì chính mình phải tu tâm sửa trí rất nhiều, mới vớt vát lại được. Khi cung Phúc Đức xấu thì ảnh hưởng các cung Tài và Phối nhiều nhất.
Để tìm ra đáp án chính xác, trong việc luận giải lá số tử vi, cần phải xem xét các cung Tài Bạch, cung Phu Thê, Thiên Di và đồng thời cần phải xem xét ý nghĩa của các sao tử vi trong cung Phúc Đức. Chỉ khi kết hợp cả hai yếu tố này thì mới có thể đưa ra một đáp án tổng quan về cuộc đời của bạn.
2. Cung Phúc đức này tượng trưng cho cái gì?
- Được mồ mả tổ tiên, nhất là trực hệ. Mồ mả này phải ở lợi địa thì con cháu mới phát đạt, đây gọi là phúc mộ.
- Dòng họ phong túc: đó là quan niệm đại gia tộc của nho học. Gia đình ít con được xem như kém phúc lộc.
- Dòng họ phải ở gần nhau trong cùng một làng càng hay. Sự ly tông để tha phương cầu thực cũng bị xem như bất lợi cho phúc đức, đó là quan niệm phúc tụ.
- Dòng họ phải hưng vượng mãi về số lượng nhân khẩu lẫn tài lộc, về con trai lẫn con gái và mỗi người cũng phải hưng vượng suốt đời mới tốt, gọi là phúc thịnh.
- Sự hưng thịnh phải hướng thiện mới gieo được nhân tốt, tạo được quả tốt cho các đời sau, gọi là phúc thiện.
3. Ý nghĩa các chính tinh trong cung Phúc Đức
3.1. Tử Vi
Chính tinh là sao Tử Vi tọa thủ cung Phúc Đức, là Thổ Tinh Tổ Sơn đại địa, gặp các sao cát tinh thì phát phúc lâu dài, nếu gặp Tiểu Hao, Đại Hao, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp là giọng Trưởng bị bại, thứ thì thành, tha hương bôn tẩu, Tổ nghiệp không vượng, địa khí đã kiệt tàn. Tử Vi miếu vượng địa được hưởng phúc lâu dài, gặp Thiên Phủ, Thiên Tướng thì chung thân được cát tường, gặp chính tinh là Phá Quân thì lao tâm phí lực bất an, hội hợp.
Tử Vi tại Ngọ thì trong họ nhiều người quý hiển, dễ thành công. Nếu có thêm Tam Hóa thì họ hàng nhiều người cực kỳ phú quý, nhất là ông nội và cha. Nếu tại Tý thì thì họ thuộc giới hiền lương, được may mắn nhưng không mấy giàu có. Tại Dần Thân thì trong họ nhiều người giàu sang.
Tử Vi tại Tỵ Hợi thì chủ về họ hàng có nhiều người đi xa mới thành công, ở gần thì không tránh khỏi gặp sự bất đắc. Tại Sửu Mùi thì họ hàng ly tán, lao lực, vất vả. Nhiều người dễ mắc bệnh nan y hoặc tù tội, cần phải đi xa mới mong thọ và khá giả được. Nếu chính tinh là Tử Vi ở cung Phúc Đức thủ tại Mão Dậu cũng chủ về họ hàng ly tán, nhiều người phải chịu cảnh cô quả, cần phải tu nhiều mới mong có tương lai.
3.2. Thiên Cơ
Theo khoa học tử vi, Thiên Cơ là một trong những sao đặc biệt và có tác động tích cực đến vận mệnh của chủ nhân lá số. Thiên Cơ được xem là sao may mắn, giúp cho người sở hữu được bảo vệ và phát triển suốt cả đời. Nếu Thiên Cơ gặp Hóa Kỵ Địa Không, Địa Kiếp thì sẽ có cơ hội tài lộc và thịnh vượng suốt đời. Tuy nhiên, nếu Thiên Cơ gặp Không hoặc Triệt thì tương đương với bóng cây và cành cây bị chắc chắn cũng bỏ, ảnh hưởng đến sự phát triển và thành công. Sao Thiên Cơ cũng có thể mang lại may mắn và thành công nếu gặp các hành tinh mang ý nghĩa tốt như Đào Hoa, Hồng Loan, Thai, Dưỡng. Tuy nhiên, nếu gặp Đà La, Thiên Riêu thì sẽ không mang lại điều gì tốt đẹp.
Chính tinh là Thiên Cơ ở cung Phúc Đức là chỉ về trước thì lao khổ sau mới được nhàn hạ, thủ với Cự Môn thì có lao lực mới được yên lâu. Nếu chính tinh này đóng cùng với Thiên Lương thì được hưởng phúc, với Thái Âm là chủ về khoái lạc mà gặp thêm Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp là bôn tẩu không được yên tĩnh.
Nếu chính tinh là Thiên Cơ độc tọa tại Tỵ Ngọ Mùi thì chủ về được hưởng phúc lộc thọ, họ hàng giàu sang, khá giả. Độc tọa tại Hợi Tý Sửu thì không được tốt, họ hàng không tránh khỏi ly tán. Tại Mão Dậu thì được hưởng phúc hậu, thanh nhàn, sung sướng và thọ lâu.
Tọa ở cung Thân đóng cùng với chính tinh Thái Âm chủ về trong họ có nhiều người giàu sang, đàn bà gặp nhiều may mắn và giàu sang hơn, nhiều người do buôn bán mà có được giàu có, càng đi xa càng giàu, thọ càng tăng. Tọa ở Dần thì không được tốt, chủ về họ hàng phải bôn ba, ly tổ. Đàn bà trắc trở về nhân duyên, đàn ông phúc bạc, không tránh khỏi tật nguyền, chết non. Ở Thìn Tuất đóng cùng với Thiên Lương chủ về họ hàng thịnh vượng, nhiều người buôn bán giàu, bản thân được nhiều phúc lộc và thọ.
3.3. Thái Dương
Thái Dương thủ cung Phúc Đức thì chủ về là người bôn mang vất vả không ngừng. Nhưng nếu có Phụ Tá cát diệu hội hợp, hoặc đắc “Bách quan triều củng”, thì chủ về trong khi vất vả bận rộn thì sự nghiệp thành tựu. Nếu kiến tứ Sát, Địa Không, Địa Kiếp hội chiếu, thì chủ về là người bôn tẩu không yên, hơn nữa thường thường hao phí khí lực. Thái Dương gặp Hóa Kỵ, thì chủ về là người dễ dẫn đến thị phi khốn nhiễu, lao lực mà vô công, chủ về tâm trí tâm tư không yên.
Thủ với Thái Âm là con cháu được yên vui, sung sướng. Với Cự Môn là phí lực mới lâu yên, đóng cùng với Thiên Lương được sung sướng yên vui, nếu là số của đàn bà mà có cung Phúc Đức như này hội cùng với các sao cát tinh là chiêu được chồng hiền minh hưởng phúc, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hóa Kỵ Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Song Hao thì suốt đời không được mỹ mãn yên vui.
Nếu chính tinh Thái Dương đóng vào các cung Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ thì được hưởng phúc và sống lâu, cha hoặc ông nội thường thọ và có chức quyền, con cái có chí của ông cha, con trưởng rất tốt. Tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý thì không được tốt, bạc phúc. Dễ bị tai nạn, bản thân nghèo và yểu, họ hàng ly tán, sa sút. Nhiều người mang bệnh nan y hay gặp tai nạn dẫn đến hình thương. Nếu tọa tại Sửu, Mùi đóng cùng với Thái Âm thì kém, anh em bất hòa, cần phải ly hương lập nghiệp mới khá được.
3.4. Thái Âm
Thái Âm ở cung Phúc Đức là chủ về địa thế cao vợi, gặp Hóa Khoa, Hóa Quyền chiếu lại chắc chắn cũng được Mộc Tinh khí thủy an cực là đứng đầu Thiên hạ. Nếu gặp Thiên Hư, Thiên Khốc, Tuần Triệt, Đà Kỵ là giả huyệt không phải thật, con cháu không được thịnh vượng. Thái Âm nhập miếu là hưởng phúc khoái lạc, cùng với Thái Dương là cực mỹ, làm tăng đạo cũng được thanh khiết hưởng phúc lâu dài, thủ cùng với Thiên Cơ thì tâm hoang mang, đóng cùng với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hỏa Tinh, Linh Tinh Địa Không, Địa Kiếp là có sự ưu buồn thì tốt, đời không được yên tĩnh.
Nếu chính tinh là Thái Âm tại cung Phúc Đức ở Dậu Tuất Hợi thì được hưởng phúc trọn đời, sung sướng, sống lâu. Đi xa dễ làm nên, được giàu có, trong họ có nhiều con gái đẹp và giàu sang. Nếu có Thiên Khôi, Thiên Việt, Hồng Đào là gái tiến cung vua, nổi danh minh tinh kiều mỹ. Đàn ông thì có tài về ngoại giao. Ở Mão Thìn Tỵ thì chủ về họ hàng phiêu bạt, nhiều kẻ lãng tử giang hồ, cô quả, bần hàn, chết sớm. Bản thân cũng không tránh khỏi mang ác tật, đàn bà không tránh khỏi khắc phu, vất vả đường nhân duyên, ly hương mới khá được.
Tại Tý thì giàu sang, sống lâu, càng đi xa càng giàu có, trong họ nhiều người tài giỏi. Nếu tọa tại Sửu, Mùi đóng cùng với Thái Dương thì kém, anh em bất hoà, cần phải ly hương lập nghiệp mới khá được. Tọa ở Thân đóng cùng với chính tinh Thiên Cơ chủ về trong họ có nhiều người giàu sang, đàn bà gặp nhiều may mắn và giàu sang hơn, nhiều người do buôn bán mà có được giàu có, càng đi xa càng giàu, thọ càng tăng. Tọa ở Dần thì không được tốt, chủ về họ hàng phải bôn ba, ly tổ. Đàn bà trắc trở về nhân duyên, đàn ông phúc bạc, không tránh khỏi tật nguyền, chết non.
3.5. Vũ Khúc
Vũ Khúc chủ về phải xa quê hương thì phát Phúc. Tuy nhiên điều được gọi là hưởng phúc, lại có khả năng mang ý nghĩa đương số là người thiếu tầm nhìn xa trông rộng, đương số có thể thấy mọi sự việc đều bước từng bước một, cho nên không tổn thương trí não. Ở trong cách này cần phải có thêm các sao cát tinh hội hợp, mà lại Vũ Khúc nhập miếu, mới chủ về là người thiện giỏi với quyết đoán, nhưng về sau mới có thể được hưởng phúc chân chính. Nếu như chính tinh Vũ Khúc lạc hãm, thì khả năng làm cho vật chất sinh hoạt tinh thần bị tổn thương. Vũ Khúc Hóa Kỵ, thì chủ luôn luôn vì tiền tài làm tâm lo lắng, đến nỗi thân tâm câu lao..
Vũ Khúc chiếu cung Phúc Đức nếu ở Hãm địa là lao tâm phí lực ở miếu vượng địa là an nhiên hưởng phúc, nếu có thêm Phá Quân hội cùng với là chạy Đông chạy Tây đời không yên tĩnh, nếu như đóng cùng với Thiên Tướng thì lão cảnh an khang. Nếu gặp Thất Sát là lâu mới được an khang, gặp Tham Lang càng về già càng hưởng được nhiều phúc, gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh miếu vượng là được an nhàn, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La là phải hao tâm phí lực.
Nếu chính tinh là Vũ Khúc tọa tại Tý Ngọ thì được giàu sang, sống lâu, họ hàng nhiều người làm thương gia. Tại Thìn Tuất chủ về nhiều phúc lộc, sống lâu, càng già càng tốt, họ hàng khá giả, phát về võ nghiệp hoặc buôn bán. Nếu tại Sửu Mùi thì đóng cùng với Vũ Khúc cũng chủ về họ hàng khá giả, làm ăn buôn bán được giàu có, nhưng phải đi xa lập nghiệp mới mong có con trai nối dõi.
Nếu đóng tại Tỵ Hợi cùng với Phá Quân chủ về họ hàng ly tán, phải lập nghiệp xa quê thì thành công. Thủ tại Mão Dậu thì phát về võ nghiệp nhưng không tránh khỏi mắc tù tội hay tai nạn hiểm nghèo. Sẽ có nhiều phúc lộc, trong họ đa đinh, nhiều người quý hiển nếu ở Dần Thân.
3.6. Thiên Đồng
Thiên Đồng gặp Văn Xương, Văn Khúc Thiên Khôi, Thiên Việt Hóa Khoa, Hóa Quyền là đất phát nhiều Quan. Nếu có sao Thiên Khôi lập ở ngoài chiếu vào là Thiên Hạ cái thế văn chương. Nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Địa Không, Địa Kiếp là Huyệt không được chính chỗ tuy phát mà chỉ bình thường. Nếu có chính tinh ở cung Phúc Đức là Thiên Đồng nghĩa là được hưởng Phúc Thọ sung sướng, với Cự Môn chắc chắn cũng buồn phiền vui ít, với Thái Âm đồng cung là được hưởng phúc, cùng đóng cùng với Thiên Lương là thanh nhàn khoái lạc.
Nếu có chính tinh là Thiên Đồng chủ về phúc thọ song toàn, công danh kế thế, họ hàng nhiều người khá giả nhưng đều thành công ở phương xa. Ở Dậu thì không được tốt, họ hàng sa sút, phải tha phương cầu thực, bản thân khó tránh khỏi tật nguyền, khắc cha từ thuở nhỏ. Tại Tỵ Hợi chủ về được sung sướng, thường phát về công thương kỹ nghệ.
Trai gái thường phóng túng, ngông cuồng, họ hàng không tránh khỏi ly tán. Nếu ở Tý Ngọ thì giàu sang, sống lâu, càng đi xa càng giàu có. Ở Thìn thì họ hàng ly tán, thường phát sinh kiện cáo, tranh giành, bản thân khá giả nhưng bị ghen ghét. Ở Tuất còn xấu hơn Thìn, bản thân phải vất vả long đong, thậm chí mang tật nguyền, họ hàng ly tán, cần phải ly hương mới mong khá giả được. Nếu ở Dần Thân thì chủ về vất vả, phải về hậu vận mới khá được.
3.7. Liêm Trinh
Liêm Trinh gặp Thiên Tướng, Lộc Tồn đồng độ là địa khí nhiều mạnh và đẹp. Long, Hổ ở ngoài chầu lại thì quý được Vua phong, phú gia địch quốc. Nếu gặp thêm Cô Thần, Quả Tú thì chủ về thành không được công nhân, trai gái bị cô quả phải bôn tẩu tha hương.
Liêm Trinh đứng một mình là trong hoang mang thì có phúc, đóng cùng với Thiên Tướng thì chủ về có phúc thọ, gặp chính tinh Thiên Phủ là vui vẻ, an cư lạc nghiệp không bị ưu buồn, nhưng nếu gặp Phá Quân là phải lao tâm phí lực, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hỏa Tinh, Linh Tinh là lao khổ.
Chính tinh trong cung Phúc Đức là Liêm Trinh ở Dần Thân thì bản thân phải đi xa lập nghiệp, bôn ba vất vả, về già được thanh nhàn nhưng không tránh khỏi gặp tai nạn hình tù hay bệnh nan y. Nếu ở Thìn Tuất chủ về họ hàng giàu sang, sung sướng, phát nhiều về con gái, bản thân thường được nhờ người hôn phối. Ở Tý Ngọ chung đóng cùng với Thiên Tướng thì được giàu có, trong họ hiếm trai, nhiều gái. Tại Tý có phần tốt hơn. Nếu tại Mão Dậu cùng với Phá Quân chủ về vất vả, ly tán, họ hàng sa sút, bản thân phải ly tổ xa quê hương mới khá giả.
Nếu chính tinh này ở Tỵ Hợi cùng với Tham Lang không tốt, khó tránh được tai nạn hay tù tội hoặc mắc các chứng bệnh nan y, tật nguyền. Họ hàng phải ly tán, phiêu bạt. Ở Sửu Mùi đóng chung với Thất Sát thì giảm thọ, họ hàng nhiều người bị tai nạn kinh khủng hoặc bất đắc kỳ tử, không thì cung mang tàn tật. Nhiều người cô độc hoặc làm người tu hành.
3.8. Thiên Phủ
Thiên Phủ nếu bị Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp là Trưởng bại thứ thành tha hương bôn tẩu tuy phát nhưng không lâu, địa khí đã kiệt. Chính tinh Thiên Phủ chỉ về mộ ngũ đại ngoại được yên tĩnh hưởng phúc, tọa cùng với Tử Vi là một đời khoác lạc, đóng với Liêm Trinh thân thì yên mà tâm thì hoang mang, nếu ở cùng Vũ Khúc, nhỏ thì cực khổ đắng cay, trung và vãn niên thì được an lạc hưởng Phúc mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hỏa Tinh, Linh Tinh Địa Không, Địa Kiếp, Song Hao, Hóa Kỵ là lao khổ đệ nhất.
Chính tinh trong cung Phúc Đức là Thiên Phủ tọa ở Dần Thân thì trong họ nhiều người giàu sang. Tại Tỵ Hợi chủ về họ hàng đông đúc, nhiều người giàu sang và thọ. Nếu ở Thìn Tuất họ hàng được giàu sang, sung sướng, bản thân được nhờ người hôn phối. Ở Tý Ngọ là được giàu sang, sống lâu, họ hàng nhiều người phát phú. Trọng họ nhiều người bị hình tù, phải ly tán khi Thiên Phủ ở Mão Dậu. Nếu ở Sửu Mùi thì không được tốt, họ hàng ly tán, bản thân không tránh khỏi khắc cha mẹ, phải ly hương mới giàu sang được.
3.9. Thiên Lương
Sao Thiên Lương cùng với Văn Khúc, Hóa Khoa, Hóa Quyền tại cung Phúc Đức là đất phát Văn mà Vũ chiều vậy. Nếu gặp Thiên Lương Hãm địa và Tuần, Triệt, Thiên Mã, Hóa Kỵ là địa thế bị hư liệt, trai thì du đãng, gái đa dâm, phá tán Tổ nghiệp.
Thiên Lương tại Tý Ngọ thì sống lâu, dễ hưởng phúc, trong họ nhiều người khá giả, phúc hậu. Tại Sửu Mùi lại chủ về họ hàng khá giả, bản thân trung bình, nếu bị tàn tật thì thọ. Ở Tỵ Hợi không tốt, họ hàng ly tán, sa sút, bản thân lao đao, phải ly hương lập nghiệp mới khá giả được. Trong họ thường có những người liều lĩnh, theo con đường bá đạo tiến thân. Nếu ở Dần Thân thì vất vả, phải về hậu vận mới khá được.
Nếu chính tinh Thiên Lương đóng vào các cung Mão thì được hưởng phúc và sống lâu, cha hoặc ông nội thường thọ và có chức quyền, con cái có chí của ông cha, con trưởng rất tốt. Tại Dậu thì không được tốt, bạc phúc. Dễ bị tai nạn, bản thân nghèo và yểu, họ hàng ly tán, sa sút. Nhiều người mang bệnh nan y hay gặp tai nạn dẫn đến hình thương. Ở Thìn Tuất đóng cùng với Thiên Cơ chủ về họ hàng thịnh vượng, nhiều người buôn bán giàu, bản thân được nhiều phúc lộc và thọ.
3.10. Thiên Tướng
Thiên Tướng gặp Hóa Khoa, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt là đất long mạch đang lên chiều cao với, đời đời Công Hầu bá tước. Nếu gặp Tuần Triệt, Địa Không, Địa Kiếp thì long mạch bị kim châm chích thương tàn trong hoạn lộ thì dễ bị hoán cải, cách chức, dễ dính đến nhiều thị phi.
Thiên Tướng đắc địa thì được an nhàn hưởng phúc sống lâu, gặp Tử Vi là khoái lạc, đóng cùng với Thiên Cơ thì hoang mang mà trong được tốt, cùng Thái Dương thì Phúc Thọ song toàn, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hỏa Tinh, Linh Tinh Địa Không, Địa Kiếp thì tâm không được yên.
Sẽ có nhiều phúc lộc, trong họ đa đinh, nhiều người quý hiển nếu Thiên Tướng trong cung Phúc Đức ở Dần Thân. Ở Tý Ngọ chung với Liêm Trinh thì được giàu có, trong họ hiếm trai, nhiều gái. Tại Tý có phần tốt hơn. Chính tinh này ở Mão Dậu thì họ hàng ly tán, phát về võ nghiệp, sống lâu. Tại Sửu Mùi thì không tránh khỏi tai nạn hoặc tù tội, trong họ giàu, nhiều người tài giỏi. Còn nếu ở Tỵ Hợi chủ về được hưởng phúc thọ, trong họ nhiều người đạo đức, làm ngành về giáo dục, tôn giáo.
3.11. Tham Lang
Tham Lang gặp Vũ Khúc Hóa Khoa, Hóa Quyền Lộc là địa khí nhiều, âm ỉ lâu bền, đứng đầu thiên hạ, phát mộ Ngũ đại. Nếu Tham Lang ở cung Phúc Đức gặp Tuần Triệt là như một mở một đóng, một may rủi nhưng cũng không đến nỗi là họa hại. Tham Lang lạc hãm là lao tâm không nên gặp Liêm Trinh thì phúc bạc, cùng với Tử Vi thì về già chắc chắn cũng được an lạc vui vẻ.
Tham Lang trong cung Phúc Đức tọa tại Thìn thì phải xa quê mới mong có con nối dõi, họ hàng nhiều người giàu sang, khá giả, bản thân rất uy hùng, giàu có nhưng lại hiếm muộn và cô đơn. Nếu ở Tuất thì tốt, trong họ đa đinh, giàu có, thường hiển hách nhưng phần nhiều đi xa làm giàu. Tham Lang ở Sửu cùng với Vũ Khúc, họ hàng khá giả, phát về võ nghiệp, hay buôn bán làm giàu. Tại Mùi thì giống với ở Thìn.
Nếu chính tinh là Tham Lang ở cung Phúc Đức thủ tại Mão Dậu cũng chủ về họ hàng ly tán, nhiều người phải chịu cảnh cô quả, cần phải tu nhiều mới mong có tương lai. Nếu chính tinh này ở Tỵ Hợi cùng với Liêm Trinh không tốt, khó tránh được tai nạn hay tù tội hoặc mắc các chứng bệnh nan y, tật nguyền. Ở Tý Ngọ thì giảm thọ, hiếm hoi, họ hàng ly tán, nhiều người sa đọa, nghèo khó, cần gặp Tuần Triệt thì đỡ, nên đi xa tạo dựng cơ nghiệp. Tại Dần Thân thì phát về võ nghiệp hay các nghề tự do, công thương kỹ nghệ, thầu khoán, nhưng cũng không tránh khỏi bị bại lớn.
3.12. Cự Môn
Cự Môn gặp Thái Dương, Hỏa Thiên Khôi, Thiên Việt Cơ, Quyền Ấn và các sao tốt cũng phụ là Văn Võ toàn tài, Thiên Riêu, Đà La, Hóa Kỵ là hung táng là bị nơi Ác Sơn Ác Thủy, thì bị tai hung, trai gái bệnh tật yểu bần, hình ngục, huynh đệ bất hòa. Cự Môn chỉ mộ Bác ruột, lạc hãm là lao tâm không yên, cùng với Thái Dương có buồn có vui, thủ cùng với Thiên Đồng là hưởng phúc, mà gặp thêm Kình Dương, Đà La Hỏa Tinh, Linh Tinh Địa Không, Địa Kiếp là gặp nhiều sự ưu buồn.
Cự Môn tại Tỵ Hợi thì họ hàng khá giả, bản thân được hưởng nhiều phúc lộc, đông con, về già giàu có. Nếu ở Tỵ Ngọ họ hàng sa sút, nhiều người bị tù tội, bản thân không tránh khỏi bị bệnh nan y, vất vả, không tránh khỏi bị tù tội, về già cô đơn, nghèo túng. Ở Thìn thì non yểu, vất vả, họ hàng phiêu bạt, bản thân bất mãn nặng nề, càng về già càng cô đơn, phải ly tổ mới mong khá giả được.
Nếu ở Tuất thì họ hàng ly tán, chẳng ai ưa ai, cá nhân được giàu sang nhưng không tránh khỏi bị ghen ghét, cô độc. Tại Thân, Dậu thì không được tốt, bạc phúc. Dễ bị tai nạn, bản thân nghèo và yểu, họ hàng ly tán, sa sút. Nhiều người mang bệnh nan y hay gặp tai nạn dẫn đến hình thương. Tại Mão Dậu thì được hưởng phúc hậu, thanh nhàn, sung sướng và thọ lâu.
3.13. Thất Sát
Thất Sát gặp Tử Vi Hóa Khoa, Hóa Quyền là chủ về anh hùng oanh liệt, vũ liệt công hầu. Ở Hãm địa có Kình Dương, Đà La Địa Không, Địa Kiếp Kỵ, Thiên Riêu, Thái Tuế nghĩa là đơn độc, có thì cũng ngoài không chiều phục thì nhân đinh không vượng, yểu nhược tàn tật bình thường, lao tâm phi lực.
Nếu gặp Vũ Khúc thì lâu mới yên, với Liêm Trinh là cực nhọc, cùng Tử Vi thì trước lao khổ sau mới an nhàn về sau được toại ý. Lá số tử vi của đàn bà mà cung Phúc đức có một sao Thất Sát tất chỉ làm Nô tỳ, Ca kỹ.
Nếu chính tinh là Thất Sát ở Tỵ Hợi thì chủ về họ hàng có nhiều người đi xa mới thành công, ở gần thì không tránh khỏi gặp sự bất đắc. Tại Mão Dậu thì họ hàng ly tán những phát phú nhờ buôn bán hay kinh doanh, có nhiều người giỏi về kỹ thuật. Nếu ở Dần Thân chủ về được hưởng phúc lộc song toàn, thọ, càng về già càng tốt, trong họ có nhiều người giàu sang.
Ở Sửu Mùi thì đóng chung với Liêm Trinh thì giảm thọ, họ hàng nhiều người bị tai nạn kinh khủng hoặc bất đắc kỳ tử, không thì cung mang tàn tật. Nhiều người cô độc hoặc làm người tu hành. Tại Tý Ngọ nếu không gặp Tuần Triệt thì tốt đẹp, thường thành công bằng con đường võ nghiệp, tuổi thọ trung bình. Nếu Thất Sát ở Thìn Tuất thì kém phúc, trong họ nhiều người bị tai nạn về súng đạn, gươm đao, đi xa lập nghiệp thì nhẹ hơn.
3.14. Phá Quân
Phá Quân gặp Vũ Khúc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt là Tú khí chắc chắn cũng Văn Võ kiêm toàn đỗ đạt cao. Nếu chính tinh Phá Quân ở nơi Hãm địa gặp Liêm Phục Hình là đất ác khí chủ về bị mũi nhọn đâm vào chết. Nếu lạc hãm là lao tâm phí lực, cùng Vũ Khúc là lâu mới yên, với Liêm Trinh là khổ cực. Cùng Tử Vi là an lạc, nhưng gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp cả đời không được yên tĩnh.
Chính tinh trong cung Phúc Đức là Phá Quân tại Tý chủ về có tiếng tăm, thường trước phá sau thành, họ hàng nhiều người phát về công thương kỹ nghệ, ở Ngọ thì tốt hơn Tý. Tại Thìn Tuất thì chủ về họ hàng ly tán, nhưng thường có những bậc nhân tài, giàu sang, có thể có nhà phát minh khoa học. Ở Thân thì rất tốt, quý hiển nhưng họ hàng phải ly tán. Nếu ở Dần thi không được tốt, phúc bạc.
Nếu ở Mão Dậu thì cùng với Liêm Trinh chủ về vất vả, ly tán, họ hàng sa sút, bản thân phải ly tổ xa quê hương mới khá giả. Được ở Sửu Mùi thì họ hàng ly tán, lao lực, vất vả. Nhiều người không tránh khỏi mắc bệnh nan y hoặc tù tội, cần phải đi xa mới mong thọ và khá giả được. Tại Tỵ Hợi cùng với Vũ Khúc chủ về họ hàng ly tán, phải lập nghiệp xa quê thì thành công.